Pages

Saturday, May 18, 2013

"Bình Ổn" Thị Trường Vàng - "Vàng trong dân"

Tin giật gân
2 năm trước - năm 2011 - vào ngày 09/06, tại hội thảo “Tác động của thị trường vàng đến thị trường tài chính Việt Nam”, Uỷ ban giám sát tài chính quốc gia công bố một con số mà họ cho là giật mình là số vàng mà người dân nắm giử có thể lên đến 1000 tấn. Nhưng thật ra con số 1000 tấn đã được ông Lê Đức Thúy - khi đó là Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia - đề cập tới trong một buổi phỏng vấn ngày 05/11/2010, ông nói "Con số khoảng 1.000 tấn vàng là được cung cấp bởi Hội đồng vàng thế giới, con số thực tế có thể nhiều hơn hay ít hơn, nhưng chắc chắn là một lượng vàng không nhỏ đang tồn tại trong dân." Thông tin Hội Đồng Vàng Thế Giới (WGC) ước lượng được trong vòng gần 20 năm qua Việt Nam đã tiêu thụ hơn 1000 tấn vàng đã gây chấn động Việt Nam đặc biệt là con số này được đề cập không lâu sau khi nhà nước thông qua thông tư 22/2010/TT-NHNN.

Và hơn nữa tháng sau đó, trong phiên chất vấn ngày 22/11/2010, con số 1,000 tấn đã trở thành đề tài buộc ngài thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) - Nguyển Văn Giàu - phải tham gia mặc dù ông không có tên trong danh sách. Điều này thể hiện người dân, đại biểu quốc hội có mối quan tâm lớn về thực hư số vàng này. Vào thời điểm đó, thống đốc Giàu đưa ra số liệu nhập khẩu và xuất khẩu vàng từ năm 1998 đến năm 2010 và khẳng định rằng Việt Nam trong giai đoạn đó chỉ nhập siêu 71 tấn vàng và cho rằng việc nói người dân Việt Nam nắm giữ 1000 tấn vàng là vô căn cứ. Cho tới thời điểm đó ông Nguyễn Văn Giàu vẫn không tin rằng người Việt Nam nắm giữ một lượng vàng rất lớn. Thống đốc Giàu còn khẳng định: "Trong lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có số liệu thống kê số vàng tồn trong dân. Ai đó khẳng định 1.000 tấn, thậm chí số lượng tương đương 45% GDP thì tôi không hiểu họ lấy số liệu ở đâu ra. Nếu đúng vậy thì dân ta quá giàu và GDP/đầu người không phải là 1.200 USD mà có khi lên tới 1.600 USD hoặc hơn. Tuy nhiên, tới đây khi Ngân hàng Nhà nước xây dựng nghị định quản lý vàng, chúng tôi sẽ có số liệu, nhưng chỉ là số liệu thông qua nhập xuất khẩu chính thức". Số liệu và sự hờ hửng của ngài thống đốc đã phần nào làm diệu dư luận thời gian đó.

Nhưng nghi vấn về vấn đề một lượng vàng lớn nằm trong dân chúng đã có từ khá lâu. Năm 2008, đại diện SJC đã đưa ra thống kê từ khi công ty này thành lập, năm 1988, đến 2008 đã có 11 triệu lượng vàng miếng thương hiệu SJC (tương đương 400 tấn vàng) đã được bán ra thị trường trong nước. Vậy con số 400 tấn này khá mâu thuẩn với con số 71 tấn của thống đốc Giàu đưa ra 2 năm sau đó. Một năm sau đó, năm 2009, báo Sài Gòn Tiếp Thị đã cho đăng bài "Dân chúng đang dự trữ gần 1.000 tấn vàng", trong đó tờ này đã sử dụng số liệu từ WGC và cho rằng tính đến thời điểm 2009 người Việt đã tiêu thụ gần 800 tấn vàng. Hiển nhiên, không dừng tại đó, chủ đề đó vẫn được bàn luận dai dẳng cho trong nhiều năm.

Mùa xuân năm 2011, chủ đề vàng trong dân một lần nữa đã được đem ra bàn luận. Ông Nguyễn Thành Long - Tổng GĐ Cty Vàng bạc Đá quý Sài Gòn (SJC) kiêm Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh Vàng - cho rằng vàng trong dân tại Việt Nam chưa đến 1000 tấn và ông cho rằng "Hội đồng vàng thế giới khi thống kê lượng vàng của Việt Nam từ lượng vàng nhập chính thức và lượng vàng nhập không chính thức qua đường biên giới từ Campuchia". Lập luận của ông Long lại khá mâu thuẩn với lập luận của TS. Lê Xuân Nghĩa - Phó Chủ tịch ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia - khi ông cho rằng thống kê của WGC dựa trên "Các hóa đơn giao dịch được công khai và đánh thuế nên không thể xảy ra chuyện gian lận". Vậy thì theo ông Nghĩa, số vàng được nhập không chính thức từ các nước qua Việt Nam sẽ không nằm trong thống kê của WGC. Nhưng trong diển đàn này, ông Long cho rằng số vàng trong dân chỉ khoản 300-500 tấn.

Vào ngày 04/10/2012, tại hội thảo "Làm thế nào để huy động nguồn lực vàng trong dân", TS. Nguyễn Thế Hùng -Tổng giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư và Kinh doanh Vàng Việt Nam - đã "căn cứ vào số liệu thống kê của các ngân hàng Thụy Sĩ - nơi cung vàng chủ yếu cho thị trường Việt Nam, tổng lượng vàng nhập về nội địa trong giai đoạn 1990 - 2011 khoảng 500 tấn, trong đó năm thấp nhất là 5 tấn và cao nhất là 80 tấn." trừ cho "lượng vàng miếng xuất sang các ngân hàng Thụy Sĩ trung bình khoảng 1 tấn mỗi năm, tối đa đạt 20 tấn một năm trong giai đoạn 2007 - 2009." và "Lượng vàng gửi tiết kiệm tại các ngân hàng Việt Nam khoảng 100 tấn.". Kết quả là ông TS đã thực hiện một phép cộng trừ đơn giản để đưa ra được con số 400 tấn - trùng hợp ngẩu nhiên là nó khá giống với con số thống kê của SJC năm 2008. Đó cũng chính là con số mà sau này được NHNN coi như "vàng ở trong dân". Con số 400 tấn này và con số nhập siêu 71 tấn do thống đốc Giàu đưa ra trong buổi chất vấn ngày 22/11/2010 có sự chênh lệch khá lớn. Nhưng dù sao đi chăng nữa, nó cũng đã phần nào là lời giải đáp giúp NHNN câu hỏi "vàng trong dân nắm giữ là bao nhiêu?"

Nhìn nhận về số vàng
Ngay trong buổi phỏng vấn, ông Lê Đức Thuý đưa ra đánh giá về 1000 tấn vàng "Đó là một luồng vốn rất quan trọng mà nếu không đưa vào chu chuyển trong nền kinh tế một cách chính thức thì hoặc là nó nằm im (không sinh lời), hoặc nó được lưu thông một cách không chính thức và làm ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ." Và ông cũng cho rằng chính phủ "không nên vội vàng ngăn cấm giao dịch ngoại tệ hay ngăn cấm mua bán huy động vàng bởi biện pháp đó khác nào đẩy ngoại tệ và vàng ra khỏi kênh chính thức và là cơ hội để thị trường chợ đen phát triển." Và "cần phải có một cơ chế để giúp chu chuyển nguồn vốn ấy. Việc cấm sàn vàng hoạt động là hoàn toàn đúng vì mô hình đó giống như kiểu sòng bạc, nhưng việc cấm các NHTM mở tài khoản giao dịch vàng tại nước ngoài thì cần phải xem xét lại, bởi nếu cấm thì sẽ không thể nào cân bằng được rủi ro của việc huy động vàng trong nước."

Ngoài ra, các toà báo liên tục đưa ra các bình luận về con số này, một lãnh đạo ngân hàng ẩn danh đã trả lời tờ VnExpress và cho rằng "Nếu Ngân hàng Nhà ước thực sự muốn loại hoàn toàn vàng ra khỏi thanh toán chính thức thì cần phải tiến hành nhiều biện pháp tổng thể chứ không nên đơn thuần áp dụng như thông tư về vàng vừa mới ban hành. Bên cạnh đó, áp dụng cũng phải chấp nhận những xáo trộn nhất định trên thị trường tiền tệ. Đây là một chủ trương rất lớn và cần sự ủng hộ mạnh mẽ từ phía Chính phủ”. Đó là chuyện của năm 2010, đến năm 2012, mặc dù, nghi vấn về việc người dân Việt Nam nắm giữ một số vàng lớn đã từng được nêu ra từ 2 năm trước nhưng khi TS. Nguyễn Thế Hùng cuối cùng đưa ra kết luận của mình về số vang trong dân nằm ở khoản 400 tấn, báo Tuổi Trẻ có bài "400 tấn vàng "chôn" trong dân". Cùng nhận định báo VnExpress cho đăng bài tường thuật "Hơn 400 tấn vàng nguy cơ nằm 'chết' trong dân". Điều này thể hiện sự choáng ngợp của cơ quan báo chí trước sự giàu có của người Việt Nam mà bấy lâu này ít người nhận ra. Hiển nhiên cũng có những người nghi ngờ về sự ước lượng này, như một đọc giả đã chia sẽ trên VnExpress qua bài "Tôi không tin còn 400 tấn vàng "chết" trong dân". Đọc giả này với quang điểm cho rằng người Việt Nam nghèo nên không thể nào nắm giữ số vàng lớn như vậy. Những cũng có những ý kiến cho rằng con số này phải nhiều hơn 400 tấn như ý kiến của đọc giả Trần Thiết.

Điều quan trọng là ngay sau khi con số 400 tấn vàng trong dân được kết luận, các báo cũng đã bày tỏ lo ngại về số tiền dưới dạng vàng này sẽ không đi vào nền kinh tế. Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình cũng nhận định rằng số vốn 15-20 tỉ USD bị chôn trong vàng là một sự tổn thất và một lần nữa khẳng định việc đưa nghị định 24 vào thực tế sẽ khơi thông được nguồn vốn này. Ông cũng cho rằng con số 300-400 tấn vàng rải rác trong dân đã là một "đánh giá đầy đủ". Hiển nhiên, không chỉ có các nhà hoạch định chính sách mà kể cả người dân cũng có cùng lo ngại này, đọc giả Đỗ Chí Hiếu đưa ra ví dụ của Hàn Quốc vào năm 1997 khi ngươi Hàn Quốc bán vàng ra để kích thích tiêu dùng. Anh cũng cho rằng nếu số vàng trong dân ở Việt Nam có thể sẽ đi vào nền kinh tế sẽ giúp nền kinh tế vượt khó. Và còn nhiều ý kiến chia sẽ khác của đọc giả của tờ VnExpress qua bài tổng hợp của đọc giả Thạch Lam.

Đánh Giá Lại Con Số
Sau sự kiện ngày 04/10/2012 con số 400 tấn vàng được xem như số vàng nằm rải rác trong dân mà nhà nước không thể sử dụng cũng như quản lý được. Một số ý kiến cho rằng chính nó là mấu chốt để đưa nền kinh tế thoát khỏi khó khăn. Nhưng ta cần phải nhìn lại và tự hỏi rằng liệu số vàng trong dân có phải chỉ nằm ở còn số 400 tấn hay không? Ở đây ta phải thấy được rỏ rằng kết quả 400 tấn đó là con số có được từ con số cộng trừ của vàng mà nhà nước cho phép nhập khẩu chính thức từ 1990 đến 2012 rồi người ta áp cho nó cái mác "vàng trong dân". Ở đây, ta có thể thấy nhận định này nhìn "vàng trong dân" rất hẹp và rất thô sơ. Vàng trong dân không thể nào được xác định bằng bài toán cộng đơn giản như vậy. Càng không thể xem nó con số 400 tấn là một nhận định đầy đủ về số vàng trong dân như thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình đã nói. Vì đó chỉ là con số nhập siêu vàng của Việt Nam tính từ năm 1990 đến năm 2012 và nó chỉ là một phần của số vàng mà người dân Việt Nam nắm giữ nên đánh giá như vậy là không toàn điện.

Thứ nhất, số vàng đó chỉ dựa vào con số khá mờ ảo, vì ngoại trừ sự ước lượng mơ hồ của TS. Nguyễn Thế Hùng vào ngày 04/10/2012 ra ta chưa từng thấy một báo cáo thống kê hay số liệu nào để chứng thực con số này. Sự mâu thuẩn giửa số liệu của ông Hùng và thống đốc Giàu cũng làm giảm độ tin cậy của con số này. Ngoài ra, khi ta so sánh với số vàng tiêu thụ của Việt Nam do WGC thống kê có sự chênh lệch khá xa. Biểu đồ ở dưới được tạo ra dựa trên con số thống kê từ nghiên cứu thị trường của WGC và cho thấy rằng từ năm 1991 đến năm 2012 tổng số vàng được tiêu thụ ở thị trường Việt Nam đã vượt móc 1000 tấn và đạt 1309,4 tấn.

Như vậy cứ cho rằng Việt Nam có xuất khẩu vàng ra nước ngoài như TS Nguyễn Thế Hùng đã nói, thì số vàng ở trong dân sau khi đã trừ đi 100 tấn vàng các ngân hàng thương mại đã huy động được vẫn ở mức khá cao xấp xỉ 1000 tấn.

Thêm vào đó, con số 400 tấn này dường như đã không ước lượng số vàng bị buôn lậu về Việt Nam. Trong khi đó, theo TS. Lê Đăng Doanh - nguyên Viện Trưởng Viện Quản Lý Kinh Tế Trung Ương - dẩn chứng việc chính thống đốc Nguyễn Văn Bình (khi còn là phó thống đốc NHNN) đã từng xác nhận. Nguyên văn do chính ông Lê Đăng Doanh nói "Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình từng cho hay trung bình một năm có đến 20-40 tấn vàng được buôn lậu vào Việt Nam". Nhưng không biết vì lý do gì số vàng được cho là bị "chôn" trong dân đã không đoái hoài gi tới con số này trong khi NHNN đã ước lượng được nó từ khá lâu. Ngoài ra, sản lượng vàng do bản thân Việt Nam khai thác từ các mỏ có thể không nhiều, cũng với số được tái chể thì mỗi năm cũng cung ứng được chừng 5 tấn vàng cho thị trường. Nhưng con số này cũng đã bị bỏ ra ngoài ước lượng này.

Ta quay lại với những gì đọc giả Trần Thiết đã từng đề cập trong bài - "Đừng đối xử thô bạo với số vàng 'chết' trong dân" - đăng trên VnExpress ngày 11/10/2012, người Việt Nam với truyền thống lâu đời là sử dụng vàng để làm đò gia dụng, trang sức v.v.. Ngoài ra người Việt Nam còn có xu hướng cất trử vàng để phòng thân - như một dạng của để dành và để bảo tồn nguồn vốn nhàn rổi của mình. Có thể nói rằng với truyền thống này của mình, khả năng người Việt Nam cất trử vàng có thể xuất phát từ thời rất xa xưa và số vàng mà người Việt Nam truyền từ đời này sang đời khác ở hình thức thỏi vàng rồng hoặc vàng lá là rất lớn những câu chuyện những ông già bà lảo cất giấu hàng ngàn lượng vàng ở sau vườn nhà, hay những nhà giàu sử dụng hầm bí mật để giấu hàng trăm ký vàng hay đúc hàng trăm ký vàng thành những vật dụng bình thường rồi phơi nắng phơi mưa hòng qua mặc cán bộ hồi những kỳ "đánh tư sản" sau 30/04/1975 cũng không hẳng là chuyện vô căn cứ. Con số đó thì mà bản thân NHNN khó có thể thống kê được từ dân nhưng ta cũng có thể hình dung qua câu chuyện của những "Thuyền Nhân" thời sau 30/4/1975.

Thuyền Nhân
Sau ngày giải phóng 30/04/1975, rất nhiều người từng là công chức, trí thức và lính phục vụ cho chế độ cũ, nhà tư bản hay những người dân thường nhưng bất mản với thời cuộc lúc đó đã tìm cách đi vượt biên để rời khỏi Việt Nam. Đỉnh điểm của hiện tượng này là vào năm 1978 và nó kéo dài đến những năm đầu thập niên 90. Những người này thường được gọi là "Thuyền Nhân". Khi đó tất cả những "Thuyền Nhân" đều tìm cách bán tất cả tài sản mà mình có được thành vàng hoặc USD để đi vượt biên. Họ mạo hiểm theo tàu cá để đi ra biển hướng tới hải phận quốc tế và thường thì điểm đến của họ là các trại tị nạn ở Thai Lan, Indonesia, Philippine hoặc các nươc lân ban. Để có thể đi vượt biên, họ phải trả cho chủ tàu một khoản bằng vàng hoặc bằng tiền với trị giá tương đương mà lúc thấp nhất là 1 lượng vàng và lúc cao nhất có thể lên đến hơn 10 lượng vàng cho một người. Nhà nước truy bắt rất gắt gao nên có những người đã lên thuyền hơn 10 lần mà vẫn chưa ra được đến hải phận quốc tế. Biển rộng mênh mông và những người đó chỉ lênh đênh trên biển để cầu may và không ít người trong số họ đã đi một vòng thật lớn để rồi cuối cùng trở về lại Việt Nam và cũng không ít người đã phải chết trên biển.

Hiện tại chính xác số người vượt biên bất hợp pháp và hợp pháp trong những năm sau 1975 vẫn chưa được xác minh. Nhưng người ta từng dựa trên số người đến định cư được ở nước ngoài và bản thông kê số người chết ngoài biển (được những người sống sót kể lại) và ước lượng có thể trên 1,5 triệu người Việt Nam đã vượt biên vào thời gian đó. Nhưng con số này có thể cao hơn, vì nội số người Hoa bị ép về Trung Quốc hồi 1976-1978 đã hơn 1 triệu người rồi. Cứ cho rằng bình quân mổi người này phải trả chi phí bao gồm 3 lượng vàng để được lên tàu ra khỏi Việt Nam bất hợp pháp và cả bán hợp pháp - bao gồm tiền cho chủ tàu và giấy thông hành - thì tổng số vàng mà họ bỏ ra có thể không dưới 180 tấn và con số này có thể phải cao hơn như thế này và hiển nhiên số vàng mà họ đem theo cũng nhiều hơn rất nhiều. Có thể nói, chỉ tính riêng miền Nam Việt Nam thì số lượng vàng trong dân từ trước 30/04/1975 vốn dĩ đã rất lớn.

Như vậy, việc nói số vàng trong dân lên đến 1000 tấn là hoàn toàn có cơ sở. Vì Việt Nam là một quốc gia lâu đời cho truyền thống và lịch sử hàng ngàn năm. Việt Nam không phải chỉ nhập và tiêu thụ vàng từ khi nhà nước cho phép mà truyền thống này đã kéo dài khá lâu theo đường dài của lich sử. Việc người dân sở hửu một lượng vàng lớn, thậm chí, ta còn có thể giả định rằng số vàng mà người dân Việt Nam đang nắm giữ không khoa trương mà thật đã hơn con số 1000. Vì thế, việc đánh giá quá thấp và không biết huy động số vàng này có thể sẽ khiến nền kinh tế Việt Nam trả giá đắt.

No comments:

Post a Comment